GS. Trần Ngọc Vương từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc Kinh và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Trung Quốc. Học giả này đã có cuộc trò chuyện thẳng thắn và cởi mở với Người Đô Thị.

Hiểu về Trung Quốc

Giáo sư Trần Ngọc Vương
Thưa ông, ngoài việc nghiên cứu, bấy lâu nay giới hàn lâm còn biết ông dịch khá nhiều sách Trung Quốc sang tiếng Việt. Vì sao ông làm công việc này?
Tôi phải nói rất rõ ràng rằng mấy chục năm nay, từ sau khi thống nhất đất nước đến giờ, thế lực duy nhất đe doạ, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, can thiệp sâu vào nền chính trị Việt Nam chính là Trung Quốc. Cho nên khi đối kháng với Trung Quốc cần khẩn trương hiểu biết về họ, cần khẩn trương nghiên cứu, tìm hiểu và học tập họ nữa. Tôi đang tổ chức dịch những bộ sách hết sức quan trọng của Trung Quốc về phương diện học thuật, từ lịch sử Phật giáo đến văn học, những bộ sách về Đạo giáo, Nho giáo Trung Quốc.

Hiện nay tôi đang tổ chức dịch bộ Quan huấn tập thành (những lời dạy, chỉ dẫn, khuyên bảo cho tầng lớp quan lại, từ anh mới học việc cho đến tể tướng); trong đó tổng kết toàn bộ danh tác của Trung Quốc từ xưa đến nay, văn hoá quan trường Trung Quốc trong 5.000 năm. Bộ sách này rất khổng lồ. Tôi đề nghị một loạt các cơ quan mà tôi cho là có trách nhiệm của nhà nước, nhưng chẳng đâu muốn làm và chẳng ai muốn dịch. Hiện nay có một doanh nhân bỏ tiền cá nhân tài trợ cho người của tôi dịch.
Cuốn thứ hai tôi cũng đang dịch mang tiêu đề Phản kinh, tức là cẩm nang, bí kíp của những thủ đoạn chính trị và người ta quảng cáo cuốn sách là: Lịch đại thống trị giả/ Mật như bất ngôn/ Dụng như bất tuyên bất kỳ thư (tạm dịch: Bộ kỳ thư mà kẻ thống trị ở tất cả các nơi phải giữ bí mật, làm theo nhưng không nói ra, không công bố). Bộ sách này được một nhân vật đỗ tiến sĩ đời Đường viết ra, sau đó tìm cách dâng cho vua rồi trốn biệt, về sau không ai biết ra làm sao. Ngay đến cái tên của tác giả cũng là điều kỳ bí. Tôi mua bộ sách này lần đầu vào năm 1998, lúc tôi dạy ở đại học Bắc Kinh. Đọc tên tác giả, tôi hơi ngỡ ngàng vì chưa biết chữ ấy bao giờ. Nghĩ mình người nước ngoài, học tiếng Hán có hạn chế, ai dè về hỏi các giáo sư Trung Quốc cũng không ai biết. Hai ba hôm sau nữa kỷ niệm 100 năm đại học Bắc Kinh, gần 10 xe chở các chuyên gia đại học Bắc Kinh ra đại lễ đường Nhân dân, giáo sư Phó Thành Cật cầm chữ trên tay đi hỏi cũng không ai biết. Cuối cùng, ông về tra Trung Quốc đại từ điển, ra tên này nằm ở phần đuôi của từ ghép. Phiên âm Hán Việt phải đọc là Nhuy. Cái tên này còn chưa có trong thư tịch Việt Nam, chỉ đọc theo nguyên lý thôi. Thật lạ!
Bộ sách được cất trong kho chứa sách của triều đình, nhưng thi thoảng lại lọt một phần nào đó ra ngoài nên đời Minh, Thanh đều có chỉ dụ cấm tàng trữ, đọc cuốn sách đó. Mãi tới năm 1998, lần đầu tiên nó được in ra, mà lại in ở nhà xuất bản Nội Mông Cổ, theo kiểu in để thăm dò. Nói vậy để biết đó cũng là loại bí kíp kỳ thư. Kiểu bí kíp ấy, Trung Quốc rất có truyền thống nên tôi muốn giới thiệu để chúng ta, nhất là giới chính trị, hiểu họ hơn.
Hiểu được văn hoá chính trị có lẽ sẽ giúp ta bình tĩnh và khôn khéo hơn khi phải sống cạnh một nước lớn và nhiều chiêu trò như Trung Quốc?
Đọc một số đoạn, chúng ta sẽ hiểu dần cách Trung Quốc làm chính trị. Vì họ làm đúng theo bài bản ấy thật. Song các nhà chính trị của ta có vẻ không mấy người quan tâm. Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới có thể khiến người ta thực hiện những hành vi mà trong các hoàn cảnh khác ít ai có thể làm được.
Đông Chu Liệt Quốc còn chép lại câu chuyện: có một anh đầu bếp nấu cho chủ, một ông vua chư hầu. Có lần ông vua đùa than thở: Cao lương mỹ vị trên đời ăn hết rồi chỉ còn mỗi một thứ chưa ăn là… thịt người. Hôm sau, anh đầu bếp dâng cho chủ một món thật thơm, chế biến rất tinh xảo. Tay đầu bếp cứ nhìn xem chủ ăn, gặng hỏi chúa công ăn ngon không, thấy thế nào. Ông vua bảo: Thấy lạ, cũng ngon đấy. Rồi hỏi món gì thì đầu bếp quỳ xuống lạy: “Tâu chúa công, thần đắc tội! Hôm qua chúa công nói còn món thịt người chưa ăn, nay thần cho chúa công ăn thịt người. Thần không dám giết người ngoài, chỉ giết con của thần để nấu”.
Cái đó là gì vậy? Người Việt Nam có dám làm chuyện đó không? Tôi nghĩ chắc không mấy ai làm được vì nó quá trái với tự nhiên. Vậy thì một khi họ đã dám làm đến những việc như vậy thì ta phải đặt ra câu hỏi: có điều gì họ không dám làm không? Hỏi để nhận ra một điều: nếu chỉ so với lương tri của người bình thường, có khi ta không đo lường hết được họ.
Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới có thể khiến người ta thực hiện những hành vi mà trong các hoàn cảnh khác ít ai có thể làm được.
Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng (dịch sang tiếng Việt là Tô Tem Sói), tác giả Khương Nhung của Trung Quốc xác định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung Quốc là sói tính. Sói là con vật ranh mãnh thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, của bình nguyên và cao nguyên. Người Trung Quốc đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung Quốc in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ “tính chiến đấu”, tinh thần “quật cường” của đồng bào họ.


“Trung Quốc mộng”
Ông nghĩ gì về tham vọng “Trung Quốc mộng” (Chinese Dream) mà gần đây đang được đề cập nhiều?
Người thể hiện tập trung nhất, cao nhất cái gọi là “Trung Quốc mộng” là Mao Trạch Đông. Muốn hiểu “Trung Quốc mộng” thì phải hiểu mô hình hoàng đế Trung Hoa.
Nhà cầm quyền Trung Quốc đang nỗ lực để hiện thực hoá giấc mộng đó. Chúng ta cần tỉnh táo ở tình huống này: từ thế kỷ 15 - 16 trở lại đây, thậm chí cho đến hết thế kỷ 20, kinh nghiệm lịch sử cho thấy các cường quốc tư bản chủ nghĩa trở thành đế quốc chủ nghĩa lớn lên được là nhờ biển. Các đế chế hình thành được trong thời đại tư bản chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa đều là đế chế biển. Nhưng truyền thống của Trung Quốc mấy nghìn năm qua là đế chế lục địa.
Tại sao gọi Trung Quốc là đế chế lục địa? Từ đời Hán, Trung Quốc bắt đầu đi dần xuống phía Nam, chiếm những vùng đất sát biển, thế nhưng biển với người Trung Quốc chưa thành một thứ thế năng sống. Những sản vật biển nhiều khi bình thường, với họ vẫn là khó khăn, hiếm hoi, và đều xếp vào hàng quý hiếm, đặc sản, trong đó có muối. Người Trung Quốc bị ám ảnh bởi muối, thậm chí ứng xử với nó bằng quốc sách. Đời Hán có một cuốn sách cực kỳ nổi tiếng, đó là cuốn Diêm Thiết Luận (tạm dịch: Bàn về sắt và muối). Cho tới tận thời Quốc Dân đảng, buôn muối là một nghề mang tính đặc quyền và độc quyền ở Trung Quốc. Người Trung Quốc quản lý rất chặt môn bài buôn muối, và người buôn muối thường rất giàu. Đối với cư dân miền núi, vùng sâu của Trung Quốc thì muối trở thành vấn đề lớn. Người ta buôn muối như buôn thuốc phiện. Trung Quốc đến bây giờ có 9,6 triệu cây số vuông về mặt diện tích, nhưng chỉ có hơn 18.000 cây số bờ biển, tỉ lệ bờ biển trên lãnh thổ là thấp nên chưa bao giờ Trung Quốc được xem là một quốc gia biển cả.
Vậy người Trung Quốc ý thức về biển tự bao giờ, thưa ông?
Khi người Trung Quốc đẩy hạt nhân của mình lùi dần xuống phương Nam, tiến sâu thêm xuống phía nam vùng sông Dương Tử, (từ vùng Giang Nam cũ, bây giờ là Triều Châu, Phúc Kiến, Thượng Hải, Quảng Châu…). Từ cửa sông Dương Tử mới có lối ra của Trung Quốc với biển. Đấy là xứ mở ra với biển của nền văn hoá Bách Việt, bộ phận thứ hai của văn hoá Trung Hoa.
Tôi phải nhấn mạnh họ không phải là người Hán, không có cùng cái vô thức lịch sử với bộ phận cư dân phương Bắc. Thế nên họ thường xuyên bị coi là khu vực ngoại vi, bị gọi là dân Nam Man, và bị kỳ thị bởi người Hán. Trong thập đại đế vương (10 bậc đế vương) được ghi danh của Trung Quốc, chỉ có một người gốc phương Nam là Chu Nguyên Chương, còn lại là người phương Bắc. Nhà Minh có gắn bó với phương Nam, nên không hề ngẫu nhiên mà trong hơn nửa thế kỷ đầu của triều đại nhà Minh, tầm nhìn biển bắt đầu được mở ra. Và chính thời đó mới xuất hiện Trịnh Hoà.
Trịnh Hoà là người gốc Hồi giáo Ả Rập, mang toàn bộ tri thức, kinh nghiệm buôn bán Địa Trung Hải của tổ tiên ông để phục vụ Minh triều. Khi nhà Minh lập ra Nam Kinh, ông ta là tổng thái giám (hoạn quan), đề nghị và được chấp nhận đóng những đoàn tàu lớn đi ra biển. Ông có cả thảy bảy chuyến đi biển và đấy có thể coi là một trong những người sớm nhất đi vòng quanh thế giới. Tuy nhiên, ông cũng chỉ có khoảng trên dưới 30 năm thực hiện những công việc đó. Ghi chép về biển của Trung Quốc thời đó chỉ như vậy. Sau năm 1432 là được cho vào kho. Vài chục năm sau, các vua chúa thế hệ sau của nhà Minh cũng bị xâm nhập cái tâm thế lục địa Bắc phương hoá, coi lục địa quan trọng hơn, quay lưng lại với biển, trọng nông.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa qua, Tập Cận Bình đi xuống hạm đội Nam Hải và đứng trên hạm đội này công bố về khát vọng thực hiện giấc mộng Trung Hoa, cái khát vọng trở thành đế chế biển muộn màng từ kinh nghiệm cay đắng không theo được với các đế chế biển trước đây. Trung Quốc bây giờ cảm thấy mình đủ nội lực, cảm thấy mình cần phải trở thành như vậy: một đế chế biển. Thậm chí giờ tham vọng lớn hơn, đòi chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ chẳng hạn. Rõ ràng cái cách đặt vấn đề vẫn là một thứ chủ nghĩa nước lớn, coi tất cả các nước khác chỉ là “gia vị” trên bàn đàm phán.
Bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hoá Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc có bị thế đâu?
Trong bối cảnh đó, chúng ta có thoát ra được không, theo ông?
Tôi cho rằng, bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hoá Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc có bị thế đâu? Ngay Triều Tiên bây giờ cũng đang vùng vằng thoát ra khỏi Trung Quốc. Những nước thoát ra được gần như đều trở thành nước công nghiệp lớn.
Việt Nam từ hàng nghìn năm nay rõ ràng vẫn độc lập với Trung Quốc, và khi bắt đầu có chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì thế giới bị đa cực hoá, do đó việc gắn, trói vào một cực càng không phải là định mệnh. Tuy nhiên, Trung Quốc thì rõ ràng không muốn nhìn thấy một Việt Nam mạnh, càng không muốn nhìn thấy một Việt Nam độc lập hoàn toàn với Trung Quốc mà chỉ muốn Việt Nam lệ thuộc, là chư hầu. Vấn đề còn lại ở đây là bản lĩnh, thái độ, trách nhiệm của người lãnh đạo với dân tộc. Chúng ta có làm được điều đấy không? Tôi nghĩ làm được.
Địa chính trị của ta ở cạnh một nước “lớn mà chơi không đẹp” thì cách ứng xử nên như thế nào, thưa ông?
Một điều phải thuộc nằm lòng là chúng ta cần học tập họ và hữu nghị với họ, đấy là những mệnh đề không thể khác được. Nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh vĩ đại, rực rỡ, rất nhiều thành tựu. Cha ông ta từng làm học trò của nền văn minh ấy. Và ngày nay không thiếu phương diện chúng ta vẫn tiếp tục là học trò.
Về quan hệ quốc tế, hai nước có chung một đường biên giới dài như vậy, không muốn hữu nghị cũng không được. Nhưng mà luôn luôn nhớ rằng đấy là một nước lớn vô trách nhiệm và cư xử bẩn tính. Cộng sinh với họ rất mệt mỏi nhưng vẫn phải kiên trì vì đó là điều tất yếu, không thể khác. Chúng ta phải khẩn trương củng cố nội lực, kiện toàn tư chất, phẩm giá dân tộc… mới có đủ sức mạnh đối đầu cạnh tranh với họ. Với Trung Quốc, không bao giờ được ảo tưởng, cũng không bao giờ được mỏi gối chùn chân. Người Trung Quốc buộc ta luôn phải cảnh giác.
Lê Vũ Quý Linh (thực hiện)
(Bài đăng trên báo Người Đô Thị số 18, phát hành ngày 28/5/2014)