30 septembre 2014

Trung Quốc tạo sức ép: Doanh nghiệp Việt "há miệng mắc quai"!


Nguồn: Theo Đất Việt

Bích Ngọc (thực hiện)
 
TS Lê Kim Sa: "Để nền kinh tế thị trường vận hành đúng và nhà nước chỉ cần theo dõi xem nó và điều chỉnh hành lang pháp lý chứ không theo kiểu can thiệp trực tiếp. Khi đó mọi việc sẽ vận hành theo đúng nguyên lý của nó và doanh nghiệp sẽ tự tìm được đường đi phù hợp nhất cho mình. "

Nếu "Để nền kinh tế thị trường vận hành đúng" thì cái đuôi "định hướng xã hội chủ nghĩa" phải vứt đi đâu?
Thoát Trung mà không thoát Đảng cũng giống như muốn thực hiện kinh tế thị trường mà không chịu cắt cái đuôi định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, nếu bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa thì làm sao lãnh đạo Đảng có thể tham ô tài sản cá nhân được.

Lợi ích của đất nước này không được Đảng đặt trên lợi ích lãnh đạo!


Dân Quyền


(Doanh nghiệp) - Khi bị Trung Quốc gây sức ép, vấn đề lớn nhất của Việt Nam là tính thị trường thấp và khu vực doanh nghiệp tư nhân đang phải đi ‘đường ngầm’.

TS Lê Kim Sa, Trung tâm phân tích và dự báo Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã đưa ra quan điểm của mình khi bình luận về nhận định GS Christopher Hughes rằng chiến lược của Trung Quốc đối với các nước có tranh chấp chủ quyền là sử dụng công cụ kinh tế để tạo sức ép.
PV: -Thưa ông mới đây tại Hội thảo “Các đường hướng của TQ trong quan hệ với ASEAN và Việt Nam” GS Christopher Hughes, Trưởng ban Quan hệ quốc tế Trường Kinh tế và Khoa học chính trị London có đưa ra nhận định trên bình diện toàn cầu ngày càng có nhiều quốc gia bày tỏ lo ngại trước sự trỗi dậy của TQ. Trong đó chiến lược thường thấy của TQ là sử dụng kinh tế như một công cụ trong việc tác động đến các quốc gia khác. TQ sẽ tìm cách buộc các quốc gia khác phụ thuộc họ về kinh tế và từ đó sẽ phụ thuộc các vấn đề khác. Đặc biệt với các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với TQ, công cụ này sẽ được sử dụng triệt để. Ông bình luận gì về nhận định này? Soi chiếu về Việt Nam, các học giả quốc tế đã nhận định thế nào?
TS Lê Kim Sa: - Thực ra tôi cho rằng đây là một cuộc tranh luận lớn. Tôi đồng ý với ý kiến đưa ra rằng Trung Quốc đang sử dụng kinh tế như một công cụ. Nhưng công cụ này chỉ sử dụng được đối với ‘người yếu, nước nhỏ’, có tranh chấp chủ quyền.
Bằng chứng rõ ràng là việc Trung Quốc sử dụng công cụ kinh tế ở Đông Nam Á và châu Phi. Khi Trung Quốc xâm lấn, châu Phi cũng không có bất cứ hành động gì.
Điều này cũng thể hiện ở điểm họ nhiều lần thể hiện mục tiêu chặn Đông và mở Tây.
Họ chặn đường phát triển của Nhật Bản nhưng để làm được thì phải kiểm soát được vùng biển, kiểm soát đường dầu để gây sức ép với các nước lớn. Để làm được điều này Trung Quốc phải hợp tác với Myanmar xây dựng một đường ống dầu mới và phải giảm xung đột với Ấn Độ. Có thể thấy đây là một cuộc chơi lớn.
Nhìn vào chiến lược này thì sẽ thấy tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước là một tất yếu. Và việc Việt Nam phải nhìn ra vấn đề và phải lên tiếng cũng như chủ động mọi việc cho mình.
Việc Trung Quốc tạo sức ép đối với các nước có tranh chấp về chủ quyền có thể nhìn thấy rõ nhất ở thương mại và đầu tư.

Xuất khẩu gạo tiểu ngạch sang Trung Quốc đang được xem là ẩn chứa nhiều rủi ro cả trong việc xuất khẩu lẫn khâu thanh toán
 
PV: - Sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, những người có trách nhiệm ở Việt Nam cũng đã nhìn ra hệ lụy của việc phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc và đặt ra vấn đề phải tìm kiếm những thị trường mới.
Tuy nhiên, số liệu thống kê vẫn chứng tỏ, nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc vẫn rất cao. Nhìn ở khía cạnh xuất khẩu, việc hạn chế nhập khẩu của Trung Quốc khiến nhiều ngành quan trọng ở Việt Nam điêu đứng (cao su là ví dụ điển hình).
Đâu là nguyên nhân của tình trạng, quyết tâm không đi đôi với thực tế nói trên? Qua đó, có thể thấy sự khó khăn trong việc giảm lệ thuộc từ Trung Quốc như thế nào và vì sao?
TS Lê Kim Sa: - Dù gì đi nữa thì Trung Quốc cũng là một thị trường lớn không có lý do gì mà Việt Nam không tận dụng. Vấn đề lớn nhất của Việt Nam là tính thị trường thấp và khu vực doanh nghiệp tư nhân đang phải hoạt động một cách không công bằng.
Chính sự không công bằng đó đã khiến họ đi ‘đường ngầm’, không minh bạch. Khi không rõ ràng thì họ rất dễ bị đối tác “dìm”,“ép” bất cứ lúc nào.
Hiện nay nguồn lực lớn nhất là dành cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và FDI, còn khu vực tư nhân không có gì. Họ chỉ cần lớn lên một chút là không bị ông này làm khó thì có ông kia. Đến khi họ gặp rủi ro không ai can thiệp.
Bản chất là ở chỗ nếu như các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đủ lớn, chơi một cuộc chơi sòng phẳng, họ có đủ tiếng nói, thì không bao giờ lo lắng điều gì.
Có nghĩa là rào cản chính là ở trong nước khi họ quen đi ngầm rồi thì sang kia cũng đi ngầm. Mà đi ngầm lại là lợi thế của Trung Quốc nên khi doanh nghiệp gặp chuyện thì không kêu được ai.
PV: - Trong những tháng vừa qua, theo quan sát của ông, doanh nghiệp thuộc khu vực nào, sản xuất ngành hàng nào nỗ lực hơn cả trong việc giảm phụ thuộc nói trên? Đó có phải là một lối thoát mà Việt Nam cần nhìn vào đó để điều chỉnh đường hướng, chính sách kinh tế hay không và cụ thể như thế nào, thưa ông?
TS Lê Kim Sa: - Tôi không nghiên cứu sâu về doanh nghiệp nên không thể đưa ra câu trả lời thỏa đáng. Song nếu để nói về việc lối thoát hay làm chủ chính mình thì tôi cho rằng trước hết về phía DN thì Việt Nam cần phải lớn lên.
Nhưng để làm được điều đó thì lại là vai trò của nhà nước. Tức là phải tạo ra được môi trường công bằng, chơi đẹp như nhau để doanh nghiệp không lớn lên được thì sẽ tự chết. Điều đó tự nhiên tính phụ thuộc sẽ giảm xuống.
Còn việc nhà nước lập ra kế hoạch tránh phụ thuộc nhưng từng doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu đó thì cũng không thực hiện được.
Để nền kinh tế thị trường vận hành đúng và nhà nước chỉ cần theo dõi xem nó và điều chỉnh hành lang pháp lý chứ không theo kiểu can thiệp trực tiếp. Khi đó mọi việc sẽ vận hành theo đúng nguyên lý của nó và doanh nghiệp sẽ tự tìm được đường đi phù hợp nhất cho mình. 

Xin trân trọng cảm ơn ông!